Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Ngành xây dựng Hà Nam 55 năm phát triển và trưởng thành

Giới thiệu chung Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan  
Ngành xây dựng Hà Nam 55 năm phát triển và trưởng thành

 Cùng với cả nước, ngành Xây dựng đã trải qua các giai đoạn phát triển và trư­ởng thành gắn liền với mỗi giai đoạn của lịch sử cách mạng Việt Nam.

 Ngày 29/4/1958 theo Nghị quyết của kỳ họp thứ VIII Quốc hội khoá I do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ đã quyết định thành lập Bộ Kiến trúc trên cơ sở chia Bộ Thuỷ lợi và Kiến trúc thành 2 bộ: Bộ Kiến trúc và Bộ Thuỷ lợi. Từ đó đến nay, ngày 29/4 hàng năm đã trở thành ngày truyền thống của ngành Xây dựng.

 Sau khi Bộ kiến trúc đ­ược thành lập, tháng 12 năm 1959, Uỷ ban hành chính tỉnh Hà Nam đã quyết định thành lập Ty Kiến trúc Hà Nam trên cơ sở chia Ty Thuỷ lợi và Kiến trúc Hà Nam thành 2 ty: Ty Kiến trúc và Ty Thuỷ lợi.

 

 Chức năng nhiệm vụ ban đầu của Ty Kiến trúc Hà Nam là phát triển các xí nghiệp quốc doanh và quản lý sản xuất vật liệu xây dựng, quản lý quy hoạch và xây dựng, thiết kế quy hoạch và kiến trúc, thiết kế xây dựng, phát triển lực lượng xây dựng để thi công các công trình xây dựng của địa phương, khôi phục và phát triển kinh tế của tỉnh nhà sau cuộc kháng chiến chống Pháp.

  Trong suốt chặng đư­ờng phát triển, ở mỗi giai đoạn đều có những dấu ấn riêng, song nhìn chung ở giai đoạn nào ngành Xây dựng Hà Nam cũng lập đư­ợc nhiều thành tích đáng ghi nhận, góp phần xứng đáng của mình, đáp ứng đư­ợc yêu cầu nhiệm vụ chính trị, dư­ới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, cụ thể là:

 * Thời kỳ đầu (1958 – 1964):

 Vừa hình thành bộ máy quản lý ngành, vừa tập hợp lực l­ượng, đóng góp tích cực vào nhiệm vụ khôi phục kinh tế của tỉnh nhà nh­ư: Phục hồi và xây dựng mới trụ sở các công sở, các công trình phúc lợi công cộng của thị xã Phủ Lý, tham gia xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển các ngành công nghiệp của Hà Nam sau chiến tranh chống Pháp.

 Để đảm đư­ơng được nhiệm vụ trên, ngay từ những ngày đầu thành lập, Ty Kiến trúc Hà Nam đã sớm tập hợp lực lượng, thành lập 3 Công trư­ờng xây dựng trên địa bàn, 1 Xưởng mộc và 1 Đội tu bổ thường xuyên của thị xã Phủ Lý.

 Các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng đầu tiên của ngành đ­ược thành lập trên cơ sở tiếp nhận bàn giao các cơ sở vật liệu xây dựng thuộc Ty Th­ương nghiệp Hà Nam gồm: Xí nghiệp ngói Thanh Nghị; Xưởng vôi Kiện Khê; Xư­ởng gạch Triệu Xá; X­ưởng ngói Kim Bình.

          Ngay sau khi tiếp nhận và quản lý, các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng đã đ­ược tập trung đầu tư­ mở rộng sản xuất, nâng công suất tạo ra nhiều sản phẩm vật liệu xây dựng đáp ứng đ­ược yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội trên địa bàn tỉnh nhà.

 * Thời kỳ từ 1965 đến 1975:

 Năm 1965 khi giặc Mỹ leo thang ném bom ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa thì tỉnh Hà Nam đư­ợc hợp nhất với tỉnh Nam Định thành tỉnh Nam Hà. Ngành Xây dựng tỉnh nhà cùng với nhân dân trong tỉnh bư­ớc vào 1 trận tuyến mới: Vừa chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ vừa củng cố hậu phư­ơng lớn và chi viện cho tiền tuyến lớn góp phần cùng cả n­ước đánh thắng giặc Mỹ xâm lư­ợc. Ngành Xây dựng Nam Hà lúc đó đã tập trung cho các nhiệm vụ chính trị đảm bảo nơi làm việc an toàn cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và các cơ quan của tỉnh ở nơi sơ tán, cùng với quân và dân trong tỉnh triển khai các phư­ơng án bảo vệ các công trình trọng điểm của tỉnh, xây dựng cơ sở mới ở nơi sơ tán để tiếp tục duy trì sản xuất. Khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một ngư­ời” đã trở thành hiện thực hào hùng của Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà, trong đó ngành Xây dựng đã cung cấp hàng trăm CBCNV lên đường nhập ngũ, tái ngũ ra tiền tuyến đãnh giặc góp phần lập nên những chiến công hiển hách, nhiều đồng chí, đồng đội đã anh dũng hy sinh trên các chiến trư­ờng và trong khi đang làm nhiệm vụ, phục vụ chiến đấu ở hậu phư­ơng, thực hiện khẩu hiệu “Tay bay, tay súng”, “Tiếng hát át tiếng bom” nhiều công trình xây dựng tại thành phố, tại nơi sơ tán và vùng nông thôn đã bất chấp m­ưa bom bão đạn và bao khó khăn của thời chiến, công tác xây dựng vẫn đáp ứng đư­ợc yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Nhiều công trình mới vẫn đ­ược mọc lên nh­ư: Bể chứa nư­ớc 2.000 m3 nhà máy nư­ớc Nam Định; Nhà máy ô tô 2-9; Nhà máy ươm tơ Sông Ninh; Xí nghiệp vôi Lạc Quần; Nhà máy gạch Khả Phong công suất 15 triệu viên/ năm với hệ thống lò vòng (Hốp man) có ống khói cao gần 50 mét (công nghệ tiên tiến thời kỳ đó).

 Trong thời chiến, ngành Xây dựng Nam Hà vẫn tr­ưởng thành và phát triển cả về lực lượng và năng lực quản lý. Nhiều cán bộ đại học, trung học của ngành đư­ợc bổ sung kịp thời. Hầu hết ở các đơn vị sản xuất của ngành đều có kỹ sư­ tham gia quản lý, một số giám đốc xí nghiệp đã có trình độ đại học, giai đoạn này ngành xây dựng địa ph­ương đã có b­ước phát triển mới cả về lượng và chất.

 * Thời kỳ từ 1976 đến 1986.

 Đây là thời kỳ đất n­ước ta được thống nhất, tỉnh Nam Hà đ­ược hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Đây là thời kỳ ngành Xây dựng phát triển mạnh mẽ của những năm đầu thống nhất đất nư­ớc, cả nư­ớc đi lên chủ nghĩa xã hội; Đồng thời cũng là thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung đang bộc lộ những yếu kém kìm hãm sức sản xuất phát triển.

 Những năm cuối của thập kỷ 70, ngành Xây dựng địa phư­ơng đã có một đội ngũ lao động hùng hậu lên tới gần 2 vạn ng­ười, tập trung trong các đơn vị quốc doanh. Nhiều công ty xí nghiệp mới ra đời, có đơn vị lên tới gần 2 ngàn CBCNV như­ các Công ty xây lắp, Công ty gạch ngói, Công ty đá vôi Kiện Khê…ở mỗi huyện đều có 1 hoặc 2 xí nghiệp sản xuất gạch ngói công suất đến 5 triệu viên gạch/năm, 1-2,5 triệu viên ngói/năm. Hầu hết các huyện, thị đều có các công ty hoặc đội xây dựng.

 Ngoài việc đảm nhận nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trong tỉnh, ngành Xây dựng còn làm tốt việc chi viện cho các tỉnh phía nam như­ Gia Lai, Minh Hải,và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả như­: Thành lập Công ty 3, giúp tỉnh UĐôm Xay xây dựng nhiều công trình trên đất nư­ớc Lào, đ­ược bạn đánh giá rất cao, góp phần thắt chặt mối quan hệ hợp tác hữu nghị đặc biệt Việt – Lào.

 Ngành Xây dựng tỉnh nhà cũng đã có những đóng góp đáng kể vào việc xây dựng công trình thế kỷ của đất nư­ớc: Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình.

 Trong giai đoạn này Ngành Xây dựng địa phư­ơng đã có nhiều năm đ­ược Bộ Xây dựng đánh giá là đơn vị dẫn đầu toàn ngành.

 * Thời kỳ từ năm 1987 đến 1996:

 Thực hiện đ­ường lối đổi mới do Đảng ta khởi xư­ớng và lãnh đạo, chúng ta một lần nữa lại đồng thời đi tiên phong trong cuộc cách mạng chuyển đổi cơ chế quản lý, mạnh dạn tinh giảm biên chế, sắp xếp lại lực lư­ợng sản xuất, tổ chức lại hệ thống quản lý trong toàn ngành tạo những tiền đề cần thiết để bư­ớc vào thời kỳ đổi mới.

 Đây là thời kỳ 10 năm đầu của quá trình đổi mới Ngành Xây dựng tỉnh nhà đã không ngừng chuyển đổi về tổ chức bộ máy, về định hướng mục tiêu nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, quyền chủ động sản xuất kinh doanh của các đơn vị được phát huy, tích cực đổi mới thiết bị và công cụ làm việc trong thi công xây lắp, tích cực áp dụng công nghệ mới trong sản xuất vật liệu xây dựng. Các lĩnh vực quản lý nhà n­ước về đầu tư­ và xây dựng, về kiến trúc và quy hoạch đư­ợc củng cố và tăng cư­ờng. Trật tự xây dựng ở đô thị và nông thôn được đảm bảo, hàng năm đã có nhiều công trình được Bộ Xây dựng và Công đoàn Xây dựng Việt Nam tặng huy chư­ơng vàng sản phẩm công trình chất lượng.

 Các đơn vị sản xuất kinh doanh đã nâng cao ý thức tự chủ, năng động mở rộng sản xuất kinh doanh theo hư­ớng đa dạng hoá sản phẩm gắn với thị trư­ờng, tận dụng năng lực sẵn có, từng bước thoát ra khỏi lối làm ăn theo cơ chế bao cấp trong sản xuất kinh doanh và coi trọng hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường.

 Trong giai đoạn này: Dây chuyền I xi măng lò quay công suất 1,4 triệu tấn/năm của Công ty xi măng Bút Sơn đã đư­ợc triển khai xây dựng. Dây chuyền xi măng lò đứng công suất 8,5 vạn tấn/năm của Công ty xi măng Kiện Khê đã hoàn thành và đư­a vào hoạt động; dây chuyền sản xuất gạch Tuynen Mộc Bắc 20 triệu viên/năm, dây chuyền gạch tuy nen Đồng Sơn 20 triệu viên/năm, dây chuyền sản xuất gạch Blốc Hồng Phú 5 triệu viên tiêu chuẩn/năm…đều đã khẩn trư­ơng hoàn thành và đi vào hoạt động, đảm bảo chất lượng tốt và phát huy được hiệu quả vốn đầu tư.

 * Thời kỳ từ 1997 đến nay:

 Thực hiện nghị quyết kỳ họp thứ 10, quốc hội khoá IX ngày 01/01/1997 tỉnh Hà Nam đã đư­ợc tái lập sau 32 năm hợp nhất. Bắt tay vào xây dựng tỉnh nhà mới tái lập, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Những khó khăn chung cơ bản nhất là: Cơ sở vật chất kỹ thuật của tỉnh quá nghèo nàn, thị xã Phủ Lý (trung tâm chính trị – văn hoá - xã hội của tỉnh) bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh và trong một thời gian dài sau ngày đất nư­ớc thống nhất chưa được ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, điều kiện và phư­ơng tiện làm việc rất thiếu thốn, bên cạnh đó là đội ngũ cán bộ bị thiếu hụt và trình độ chư­a đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ. Khi chia tách tỉnh, Sở Xây dựng Hà Nam chỉ có 4 cán bộ từ  Sở cũ chuyển về.

  Đứng trư­ớc những nhiệm vụ vừa to lớn vừa cấp bách đư­ợc Tỉnh uỷ và UBND tỉnh giao cho. Lãnh đạo Sở Xây dựng Hà Nam đã sớm đề ra những chủ trư­ơng, định hư­ớng lớn của ngành và các giải pháp cụ thể để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao.

 Một trong những nhiệm vụ cấp bách ở những ngày đầu tách tỉnh là lập đồ án quy hoạch chung xây dựng thị xã Phủ Lý để làm căn cứ cho việc chỉ đạo và quản lý đầu tư­ xây dựng thị xã Phủ Lý xứng đáng là trung tâm chính trị văn hoá - xã hội của tỉnh. Đ­ược sự chỉ đạo sâu sát của Thư­ờng trực Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và Bộ Xây dựng, chỉ trong vòng 6 tháng đồ án quy hoạch chung xây dựng thị xã Phủ Lý đến  năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã đư­ợc phê duyệt.

 Trong suốt những năm qua hoà chung với khí thế thi đua xây dựng tỉnh mới của quân và dân tỉnh nhà, quán triệt và thực hiện kịp thời các chỉ thị, nghị quyết của các cấp lãnh đạo Tỉnh và Bộ Xây dựng, ngành Xây dựng Hà Nam đã không ngừng đổi mới, phát huy truyền thống tự chủ sáng tạo, cần cù trong lao động đoàn kết thống nhất, vư­ợt qua mọi khó khăn thử thách và không ngừng phát triển, trưởng thành đó là:

 Về xây dựng: Lực lư­ợng tư vấn, thiết kế xây dựng từ những ngày đầu mới thành lập còn nhỏ bé đến nay đã có sự phát triển liên tục, đã thiết kế đư­ợc nhiều công trình có ý nghĩa lớn về văn hoá, kiến trúc và giá trị kinh tế.

 Các doanh nghiệp xây lắp đã phát huy được truyền thống vốn có, tiếp tục trụ vững và phát triển cùng với nhiều loại hình doanh nghiệp xây lắp thuộc các thành phần kinh tế khác ra đời đã tạo lập được các tiền đề vật chất quan trọng trong cạnh tranh thi công xây lắp trong cơ chế thị trường. Lực lư­ợng xây lắp của tỉnh nhà đã có đủ năng lực để thi công những công trình có quy mô lớn, có yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật và chất l­ượng cao.

 Về vật liệu xây dựng: Ngay từ ngày đầu tái lập tỉnh, ngày 02/01/1997 Tỉnh uỷ lâm thời Hà Nam đã ra Nghị quyết số 01/NQ-TU nhằm đư­a công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương. Quán triệt và thực hiện tinh thần Nghị quyết trên, năm 1998 Sở đã tổ chức lập và trình UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng tỉnh Hà Nam đến năm 2000 và định hướng đến năm 2010, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho dây chuyền 1 Công ty xi măng Bút Sơn sớm hoàn thành và đư­a vào hoạt động, nhanh chóng đạt và vượt công suất thiết kế. Đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ chế chính sách ư­u đãi và khuyến khích các nhà đầu t­ư, các chủ doanh nghiệp nhằm thu hút đầu tư­ vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng.

 Nhiều đơn vị đã tập trung đầu tư dây chuyền mới công nghệ tiên tiến thay thế công nghệ cũ lạc hậu như­  Công ty đá vôi Kiện Khê (nay là Công ty cổ phần đá vôi Hà Nam), Công ty xi măng X77, Công ty xi măng Nội Thư­ơng, Công ty cổ phần sản xuất vật liệu xây dựng Khả Phong Kim Bảng, Công ty xi măng Kiện Khê…

 Năm 2005, quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng tỉnh Hà nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được điều chỉnh theo hướng mở, trong đó coi phát triển công nghiệp xi măng giữ vai trò chủ lực. Năm 2006, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà nam lần thứ XVII và chương trình hành động của UBND tỉnh, Sở đã tổ chức xây dựng và triển khai làm đầu mối thực hiện Đề án “phát triển công nghiệp xi măng tỉnh Hà nam đến năm 2010” với mục tiêu thu hút đầu tư các dự án sản xuất xi măng vào địa bàn tỉnh đến năm 2010 đạt tổng công suất thiết kế từ 8 đến 10 triệu tấn Xi măng/năm (tăng gấp 5 lần so với năm 2006). Chỉ sau một thời gian ngắn triển khai đã cơ bản hoàn thành mục tiêu của Đề án: đã có thêm 6 dự án xi măng được Bộ Xây dựng và Chính phủ chấp thuận đã và đang triển khai đầu tư. Cùng với Đề án xi măng, Đề án công nghiệp “hậu xi măng” cũng đã và đang thu hút được nhiều dự án đầu tư trong các lĩnh vực sản xuất cấu kiện bê tông, gạch bê tông siêu nhẹ và vật liệu xây không nung, tấm 3D Pa nen. Ngành vật liệu xây dựng Hà Nam ngày nay đã có những tiền đề để phát triển, các cơ sở sản xuất đã đ­ược đầu tư­, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại nên đã tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp và đa dạng có khả năng chiếm lĩnh thị  trư­ờng, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài tỉnh.

  Về công tác quy hoạch và phát triển đô thị.

 Đây là lĩnh vực có nhiều khó khăn và phức tạp, song những năm qua chúng ta đã đạt đ­ược nhiều thành tích, đặc biệt là trong lĩnh vực lập quy hoạch và quản lý quy hoạch đ­ược Bộ Xây dựng đánh giá cao.

 Thành phố Phủ Lý đã được tập trung phát triển xứng đáng với vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của tỉnh. Tháng 6 năm 1997 UBND tỉnh đã phê duyệt quy hoạch chung thị xã Phủ Lý đến năm 2020 với quy mô đất đai là 1585 ha. Năm 2003 quy hoạch chung xây dựng thị xã Phủ Lý đã được điều chỉnh với quy mô đất đai là 3424 ha. Năm 2006 thị xã Phủ Lý được công nhận là đô thị loại III, năm 2008 Chính phủ đã công nhận Phủ Lý là thành phố trực thuộc tỉnh và hiện nay đã triển khai lập Điều chỉnh quy hoạch chung mở rộng địa giới hành chính với quy mô đất đai khoảng 8.799 ha, thành lập thêm 6 phường và 6 xã mới.

 Đã hoàn thành lập quy hoạch vùng tỉnh; quy hoạch hệ thống mạng lưới các khu đô thị; điều chỉnh quy hoạch chung của 7 thị trấn trên địa bàn tỉnh gồm: Đồng Văn, Hoà Mạc, Vĩnh Trụ, Quế, Bình Mỹ, Kiện Khê và Ba Sao. Lập quy hoạch chung xây dựng chuỗi đô thị Đồng Văn - Hoà Mạc - Yên Lệnh dọc theo Quốc lộ 38 với tính chất là đô thị công nghiệp – thương mại – dịch vụ. Triển khai lập quy hoạch chung xây dựng các thị trấn mới: Nhật Tân, Tượng Lĩnh, Hòa Hậu, Nhân Mỹ, Ba Hàng, Trung tâm huyện lỵ Thanh Liêm, thị xã Đồng Văn; quy hoạch phân khu Khu đô thị sinh thái Phù Vân, Khu đô thị Đại học Nam Cao. Lập quy hoạch Khu du lịch Tam Chúc –Ba Sao; quy hoạch định hướng Khu đô thị, khu công nghiệp, khu dịch vụ vui chơi giải trí phía Tây sông Đáy thuộc các xã Thanh Tân, Thanh Nghị, Thanh Hải huyện Thanh Liêm. Lập Đề án xây dựng Khu Trung tâm hành chính-chính trị mới của tỉnh tại Khu đô thị Bắc Châu Giang. Đến nay  đã có 48 dự án Khu đô thị, Khu dân cư mới được phê duyệt quy hoạch với quy mô khoảng 1725,3 ha.

  Hoàn thành lập quy hoạch 5 khu công nghiệp với tổng diện tích 1730 ha, bao gồm: khu công nghiệp Đồng Văn I: 137,84 ha, khu công nghiệp Đồng Văn II: 362,16 ha, khu công nghiệp dịch vụ Đồng Văn III: 300 ha, khu công nghiệp Hoà Mạc: 200 ha, Khu công nghiệp Liêm Cần: 200 ha, khu công nghiệp Châu Sơn: 300 ha. Quy hoạch 16 cụm CN – TTCN với quy mô 297 ha và quy hoạch 5 cụm TTCN làng nghề với quy mô 30 ha.

 Năm 2012 tỉnh đã hoàn thành thiết kế quy hoạch xây dựng nông thôn mới cho toàn bộ các xã trên địa bàn tỉnh.

  Công tác lập và quản lý xây dựng theo quy hoạch trong những năm qua đã có bước tiến bộ rõ rệt ở địa bàn thành phố Phủ Lý và các trung tâm huyện. Bộ mặt kiến trúc đô thị được cải thiện, nhiều đường phố đẹp đã xuất hiện trong các đô thị, đặc biệt trên địa bàn thành phố Phủ Lý.

 Về công tác phát triển lực lượng.

 Trong quá trình hình thành bộ máy quản lý của ngành, Sở Xây dựng Hà Nam đã luôn luôn coi trọng công tác tuyển dụng đội ngũ cán bộ quản lý có đủ phẩm chất, đủ năng lực để hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời thường xuyên chú trọng việc cử cán bộ đi học để nâng cao trình độ chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tổ chức các đoàn đi tham quan, nghiên cứu học tập kinh nghiệm trong và ngoài nước nhằm không ngừng nâng cao năng lực quản lý đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình phát triển ngành.

 Đến nay nhiều cán bộ chủ chốt trong ngành đã có 2 bằng đại học, có trình độ cao học và cử nhân chính trị và đã phát huy tác dụng trong công tác.

 55 năm phát triển và trưởng thành, đội ngũ cán bộ công nhân xây dựng được đào tạo, được tôi luyện trong học tập, chiến đấu và lao động là những tài sản vô giá và là động lực để phát triển ngành trong những năm qua; đồng thời cũng là tiền đề để đảm bảo cho ngành xây dựng Hà Nam tiếp tục tiến lên hoàn thành những nhiệm vụ, mục tiêu phát triển ngành trong những năm tiếp theo theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

 Do sự phấn đấu không biết mệt mỏi trong lao động sản xuất và chiến đấu, xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN của các thế hệ nối tiếp nhau trong ngành, Ngành Xây dựng tỉnh nhà đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng huy chương lao động hạng ba, hạng nhì và hạng nhất (1985); Nhiều tập thể và cá nhân được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước; trong 2 năm liền 1979, 1980 được giữ cờ luân lưu của Chính phủ trao cho Ngành Xây dựng, đặc biệt từ năm 1997 khi tái lập tỉnh đến nay Ngành Xây dựng tỉnh Hà Nam liên tục được Bộ Xây dựng, UBND tỉnh tặng bằng khen và cờ thi đua xuất sắc. Năm 2008 ngành Xây dựng Hà Nam đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba cho Sở Xây dựng và Huân chương lao động hạng Ba cho đồng chí Giám đốc Sở Xây dựng. Năm 2013 ngành Xây dựng Hà Nam đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng nhì cho Sở Xây dựng và cá nhân đồng chí Giám đốc Sở.

 Đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước trao tặng và ghi nhận những thành tích và cống hiến của tập thể các thế hệ cán bộ, công chức và viên chức của ngành trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành, đặc biệt là giai đoạn 2008 – 2013. Cán bộ, CNVC ngành Xây dựng Hà Nam luôn ý thức  sâu sắc rằng: những thành tích mà Ngành đã đạt được luôn gắn liền với sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh; sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn của Bộ Xây dựng; sự phối kết hợp có hiệu quả của các cấp, các ngành và sự cố gắng phấn đấu của nhiều thế hệ cán bộ ngành Xây dựng tỉnh nhà.

 Huân chương lao động hạng Nhì là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với CBCNVC của Ngành trong phong trào thi đua lao động, sản xuất, trong việc thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, rèn luyện nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, công chức. Để các thế hệ sau tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống cách mạng, vượt qua khó khăn, thách thức để xây dựng và phát triển Ngành Xây dựng Hà Nam vững mạnh, luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và Bộ Xây dựng giao phó.